Phân loại Ngữ_hệ_Triều_Tiên

Các giai đoạn lịch sử của tiếng Hàn như sau:

  • Trước thế kỷ 1: ngôn ngữ Triều Tiên nguyên thuỷ
  • Thế kỷ 1 đến thế kỷ 10: ngôn ngữ Triều Tiên cổ
  • Thế kỷ 10 đến 16: ngôn ngữ Triều Tiên trung đại
  • Thế kỷ 17 đến nay: Tiếng Triều Tiên hiện đại

Ngôn ngữ Triều Tiên cổ đại

Một số ngôn ngữ cổ của bán đảo Triều Tiên là tiếng Silla, tiếng Buyeo, tiếng Goguryeo, tiếng Dongye, tiếng Okjeo, tiếng Baekje, tiếng Gojoseontiếng Ye-Maek có thể là tổ tiên của, liên quan đến, hoặc là một phần của Tiếng Triều Tiên cổ. Hai nhánh đôi khi được đặt ra, Phù DưHàn.[11]

Vào thời cổ đại, các ngôn ngữ Triều Tiên tồn tại ở miền nam Mãn Châu và phía bắc bán đảo Triều Tiên, sau đó mở rộng về phía nam vào miền trung và miền nam bán đảo Tiều Tiên, thay thế các ngôn ngữ Nhật Bản được nói ở đó và có thể gây ra cuộc di cư thời kỳ Yayoi.[12][13][14][15][16] Có sự bất đồng về thời kỳ tiền sử hoặc lịch sử trong đó sự mở rộng này xảy ra, từ thời kỳ đồ đồng Triều Tiên đến thời Tam Quốc của Triều Tiên.

Ngôn ngữ Triều Tiên hiện đại

Tiếng Triều Tiên hiện đại theo truyền thống được coi là một ngôn ngữ duy nhất. Tuy nhiên, tiếng Jeju (Cheju) đôi khi được phân loại là một ngôn ngữ riêng biệt, ví dụ như trong Sách đỏ các ngôn ngữ bị đe dọa của UNESCO. Nếu điều đó được chấp nhận thì có hai ngôn ngữ Triều Tiên hiện đại: tiếng Jeju và tiếng Hàn Quốc/Triều Tiên đích thực.[17]